Thứ Sáu, 15 tháng 8, 2014

BÀN VỀ VẺ ĐẸP TRÍ TUỆ

       Đăng cái ảnh thằng con trai lên facebook mà bạn bè bình phẩm quá. Vẻ đẹp hình thể ai cũng thích nhưng không phải của hiếm, vẻ đẹp trí tuệ quý hiếm hơn. Nhưng rắc rối ở chỗ không phải ai cũng nhận ra được vẻ đẹp trí tuệ. Cuốn Bóng tối của ánh sáng của tôi vì bàn những chuyện lớn nên để được ra đời đã có sự giám định chặt chẽ. Người giám định cuối cùng là một tiến sĩ triết học, từng là học sinh đoạt giải thưởng quốc gia toán phổ thông, nghĩa là rất giỏi. Chúng tôi gặp nhau tại Hà Nội, không ngờ ông bạn nói: “Tôi có thể tự hào là một trong vài người ở Việt Nam đọc hiểu hết cuốn sách của anh”. Cuộc đời có được những lời khen như vậy cũng thú vị thật. Nhưng tôi vốn là người lo cho người thân nhiều hơn nên ai khen con tôi tôi thấy thích hơn nghe khen mình. Sau đây có thể là một ví dụ về vẻ đẹp trí tuệ. Khi đọc lại chính bản thân tôi đây cũng ngạc nhiên sao tôi lại kỳ công viết ra như thế, như bạn bè và vợ tôi thường nói, chỉ có “hâm” thì mới có đủ say mê mà hành xác như vậy mà  thôi!
  ĐÔNG LA
Tiến sĩ Nguyễn Thị Từ Huy – Hãy tự biết mình

BÀI LIÊN QUAN:


Trên thethaovanhoa.vn trong bài  Tiến sĩ Nguyễn Thị Từ Huy: Để đi đến sự thật, cần biết tự hoài nghi , cô đã nói: “Tiểu thuyết mới và Robbe-Grillet đã cuốn hút tôi, bởi sự khó hiểu, tính chất phức tạp và sự khác biệt của nó”.
Như vậy, Từ Huy đã bị cuốn hút bởi những cái “mới”; “khó hiểu”, “phức tạp”. Âu cũng là lẽ thường tình của một người tự tin, muốn phấn đấu vươn lên, chứng tỏ mình. Tôi cũng từng như vậy, vì tò mò tôi cũng đã tìm hiểu, nhưng không chỉ lý luận văn học mà còn tất cả những gì làm nên nhận thức của nhân loại, từ lý luận văn học, triết học, cho đến khoa học, đặc biệt là những khám phá mới nhất, như về hạt Higgs hoặc máy tính lượng tử. Còn Từ Huy, e rằng cô chỉ chạy theo cái lấp lánh của những khái niệm, cô đã không tỉnh táo để thấy cái mang danh là “mới” ấy nhưng về thời gian thì cũng đã cách nay nửa thế kỷ rồi;  và nội dung của nó lại cho những cái cốt yếu nhất của văn chương như “Nhân vật, cốt truyện, dấn thân v.v…” là “lỗi thời”!
Nước Pháp và mấy nước Châu Âu vốn là những nước háo danh, người ta đã thi nhau đưa ra đủ thứ trường phái, rồi ai cũng tự cho mình là sáng tạo đích thực, là chân lý nghệ thuật. Khởi đầu là trong hội họa người ta đã cho việc vẽ giống thật là sao chép tầm thường, Chủ nghĩa Ấn tượng đã ra đời. Các hoạ sĩ cho rằng phải vẽ ngoài trời mới thu giữ được những khoảnh khắc thoáng hiện của hiện thực sống động. Monet khi vẽ nhà thờ Rouen đã chú trọng thể hiện sự chiếu sáng khác nhau mà không quan tâm lắm đến đường nét. Picasso chê: “Làm sao cái chốc lát đổi thay chập chờn bên ngoài sự vật lại có thể là sự thật duy nhất mà người nghệ sĩ một đời theo đuổi”. Và, Chủ nghĩa Lập thể hình thành với ý muốn thể hiện được “cái bên trong” và cái “nhiều mặt” của sự vật, với một ngôn ngữ hội họa là những hình khối, những mặt phẳng. Rồi đến lượt Chủ nghĩa Lập thể cũng lại bị chê là đã coi thường hình thể hài hoà của tự nhiên. Chủ nghĩa Đađa, một chủ nghĩa “phá phách”, cho nghệ thuật chính là  sự phá vỡ cái cũ, chống lại trật tự tự nhiên để tạo ra một trật tự mới, trật tự của những cái phi lý. Theo Arp: “Định luật của cái ngẫu nhiên là định luật bao trùm lên tất cả mọi định luật”. Chủ nghĩa Siêu thực thoát thai từ Chủ nghĩa Đađa, trong Tuyên ngôn Siêu thực, Breton cho “hình ảnh siêu thực” chính là sản phẩm trùng hợp giữa hai thực tế khác nhau, một thực tế có thực và một thực tế có trong tiềm thức. Nó không phải được tạo ra do lý trí mà do một tia sáng, một động lực siêu thực. Theo ông, hình ảnh gợi cảm nhất là hình ảnh cực kỳ phi lý, phải thật khó giải thích theo ngôn ngữ thông thường. Nhưng đến lượt Chủ nghĩa Siêu thực cũng lại bị chê bởi một trong những chủ soái của một chủ nghĩa khác: Chủ nghĩa Hiện sinh, Camus viết: “Thật là một cuộc nổi loạn thực sự… Sự phủ nhận của nó với mọi cái là rõ nét, sắc bén và đầy tính khiêu khích”! (dẫn theo cuốn : “Những bậc thầy văn chương thế giới tư tưởng và quan niệm, Lê Huy Hòa, Nguyễn Văn Bình soạn, nxb Văn học, 1995; cả cuốn về Mỹ thuật hiện đại nữa, tìm mãi chưa ra).
Như vậy cái nào là chân lý nghệ thuật? Hay sự sáng tạo văn chương nghệ thuật đã bị biến thành trò chơi, thay đổi như “mốt” thời trang? Còn Từ Huy? Trong cái khối rubic các trường phái kia, cô cũng nhanh tay chọn lấy một “chân lý”? Khi được hỏi:
- Luận án … của chị về trào lưu “tiểu thuyết mới”, … ở Pháp vào các thập kỷ 1960-1970, … Lý do nào khiến chị đặc biệt quan tâm đến trào lưu này? Phải chăng vì nó phản ánh một cách nhìn khác về thực tại, báo hiệu và mở đường cho tư duy “hậu - hiện đại” ngày nay?
Từ Huy trả lời:
- Tiểu thuyết mới và Robbe-Grillet đã cuốn hút tôi, bởi sự khó hiểu, tính chất phức tạp và sự khác biệt của nó so với những hình thức văn học mà tôi từng biết trước đó. Nếu tiểu thuyết mới còn tiếp tục cuốn hút tôi, thì đó không chỉ vì những đặc trưng hình thức: tính chất mảnh, tính chất phân rã, sự phá sản của cái gọi là đại tự sự...
Như vậy, chế độ “đại tự sự” XHCN ở Việt Nam, đã đầu tư cho một nghiên cứu sinh say mê nghiên cứu “sự phá sản” của chính mình! Thật là ngược đời, để cuốn theo cái niềm say mê đó, có lẽ Từ Huy nên nhận “học bổng” của những người chống chế độ  thì phù hợp hơn.
Vậy “đại tự sự” là gì?
Chủ nghĩa Hậu hiện đại có khái niệm métarécit, dịch sang tiếng Anh là metanarrative, có người dịch là siêu văn bản, có người dịch là đại tự sự (như Từ Huy dùng).
 Theo Lyotard, tinh thần hậu hiện đại sinh ra là để chống lại sự độc tài của các chủ thuyết mà ông gọi là các siêu văn bản (métarécit). Chủ nghĩa Hậu hiện đại coi trọng vai trò cá nhân, các nhóm, các lý thuyết nhỏ, những tiểu văn bản (petits récits), đề cao cái tạm thời, cái ngẫu nhiên, không coi trọng tính ổn định, tính hợp lý hay sự thật khách quan. Trong đó tất cả mọi ý kiến đều có quyền hiện diện, kể cả sự bất đồng và nói sai (paralogie). Lyotard viết: "Nói một cách giản dị nhất, người ta coi "postmoderne" là sự không tin vào những lý thuyết lớn, siêu văn bản (métarécits) (ý nói những chủ nghĩa)”.
      Trong bài CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI VÀ ẢNH HƯỞNG Ở NƯỚC TA tôi đã viết: “Chủ nghĩa Hậu hiện đại cũng như mọi trào lưu đã xuất hiện khác đều có phần có lý. Tư tưởng chống giáo điều, chống khuôn mẫu xơ cứng, áp đặt, đấu tranh cho bình đẳng, dân chủ, vai trò cá nhân; phá vỡ những quy phạm nghệ thuật mòn cũ… là những mặt tốt. Nhưng ở ta, tiếp thu nó với ý thức mê muội, nô lệ, đề cao một cách phi lý, áp dụng một cách cực đoan thì khó mà được ủng hộ rộng rãi. Về mặt tư tưởng, sự cực đoan theo tinh thần hậu hiện đại sẽ dẫn đến sự hỗn loạn vô chính phủ…  Trong văn chương nghệ thuật, sự cực đoan của chủ nghĩa hậu hiện đại sẽ biến nó thành trò chơi lập dị, vô nghĩa.
Tiếc rằng Từ Huy đúng là đã chạy theo những tín điều nghệ thuật như mốt thời trang mà không đủ trình độ để “tự biết”, cô nói về Tiểu thuyết mới:
Sức hấp dẫn của nó đối với tôi chính là ở cái chiều sâu mà Robbe- Grillet đã vờ như từ chối, ở tính chất đa phức, khó khái quát lại thành các công thức hay khuôn mẫu. Thực ra trong cách nhìn của Tiểu thuyết mới, cũng như trong cách nhìn của hiện tượng học, chiều sâu của sự vật nằm trong chính cái bề ngoài của nó, tương tự như bản chất của sự vật chính là ở trong hiện tượng mà nó biểu hiện. Đấy là lý do vì sao Robbe-Grillet và tiểu thuyết mới đề cao cái bề ngoài. Đây chính là một cái nhìn khác về thực tại”.
Hồi nhỏ tôi đã xem một bộ phim có cảnh hai đứa trẻ học bài trở thành rất nổi tiếng hồi ấy: “Rắn là loài bò, rắn là loài bò, sát không chân, sát không chân”. Giờ đây đọc đoạn văn trên tôi lại thấy có một cô TS cũng nói như thế.
Trong xã hội loài người, cái điều có rất nhiều hiện tượng và bản chất không trùng nhau đã là hiển nhiên. Như việc tên kẻ cướp giết người cướp của thì hành động giết người đúng là ác, nhưng hành động bắn tử tội hoặc quân xâm lược thì cũng là giết người nhưng bản chất lại là việc thiện. Trong toàn bộ hành trình vươn tới những nấc thang khác nhau của nền văn minh, công việc chủ yếu của loài người là vén bức màn hiện tượng để nhìn sâu vào bản chất, kể cả những sự việc trong xã hội lẫn những sự vật trong tự nhiên.
      Nếu Từ Huy tin theo điều “chiều sâu của sự vật nằm trong chính cái bề ngoài của nó” thì hai chất cùng là muối của Natri (Na) và cùng là bột màu trắng: Clorua Natri (NaCl) và Cyanua Natri (NaCN). Chúng đều “trắng” đấy, theo “thuyết” trên thì chúng sẽ cùng “bản chất”, nhưng Từ Huy thử cho NaCN vào nồi canh thay cho NaCl mà ăn thử xem có sùi bọt mép ra ngay lập tức không?
Có điều viết như trên, cho đó là “cách nhìn của hiện tượng học”, thì Từ Huy lại “không biết” gì về Hiện tượng học cả. Hiện tượng học không có phân chia bản chất với hiện tượng theo lẽ thường, nên không có chuyện đồng nhất hai cái như trên.
       Hiện tượng học không chỉ là “mốt” của nhóm “văn sĩ chuộng lạ” ở nước ta, mà ngay cả Kundera cũng từng lấy nó làm cơ sở triết lý cho văn chương của mình. Trong cuộc trò truyện với Christian Salmon, Kundera nói: “Thi sỹ là anh chàng trẻ tuổi được mẹ dắt tay đến trưng bày trước cái thế giới mà anh ta không thể bước vào được". Anh thấy đấy, định nghĩa ấy không phải là xã hội học, không phải là mỹ học, cũng chẳng phải tâm lý học”. C.S: “Nó là hiện tượng học.  M.K: “Tính từ này không tồi, nhưng tôi tự cấm mình dùng. Tôi quá sợ các vị giáo sư coi nghệ thuật chỉ là một thứ phái sinh của các trào lưu triết học và lý thuyết. Tiểu thuyết biết đến cõi vô thức trước Freud, biết đến đấu tranh giai cấp trước Marx, nó thực hành hiện tượng học (cuộc tìm kiếm bản chất các tình huống của con người) trước các nhà hiện tượng luận. Tuyệt vời biết bao các “cảnh mô tả kiểu hiện tượng học” ở Proust là người chưa từng biết một nhà hiên tượng học nào!”
            Vậy Hiện tượng học là gì? Có lẽ cũng cần bỏ chút thì giờ phân tích đôi nét chính của một trào lưu có ảnh hưởng mạnh đến văn hóa tư tưởng các nước phương Tây trong thế kỷ XX.
Husserl, người sáng lập ra Hiện tượng học, cho rằng hệ thống triết học cả duy tâm lẫn duy vật đã bỏ quên con người, vì thế ông muốn sáng lập một trường phái triết học mới mang  ý nghĩa nhân sinh: “nhiệm vụ của nó là làm rõ cảm giác của con người về thế giới này”. Đặc thù của Hiện tượng học là mô tả sự tự sinh của ý thức, cái ý thức luôn hướng về đối tượng nào đó (tính cố ý, ý hướng tính), rồi sẽ nhận thức đối tượng đó bằng cảm tính chủ quan của mình, ban bố cho nó ý nghĩa. Sẽ không có duy tâm hay duy vật theo lý thuyết cũ mà chỉ có trạng thái nối liền liên khách chủ thể (Relation sujet-objet), đó chính là cái trạng thái mà Husserl gọi là sự suy tư về chính chủ thể suy tư. Nếu Descartes cho sự tồn tại của con người là sự suy tư "Cogito, ergo sum" thì Hiện tượng học của Husserl còn đi xa hơn: “Cogito, ergo cogito cogitatum”. Nghĩa là suy tư về cái tôi khi nó suy tư về sự suy tư. Sự suy tư đó chính là những hiện tượng tự sinh trong ý thức. Và để nắm bắt được ý thức thuần tuý, Husserl đã đưa ra phương pháp epoché (έποχή) hoặc "bracketing" (cô lập, để trong ngoặc) đối tượng nhận thức. Theo Từ điển, “Ý thức thuần túy” theo Husserl là: “sự gột rửa của ý thức khỏi những sơ đồ, những giáo điều, những khuôn mẫu tư duy”. Đó là “tái tạo trường tư tưởng trực tiếp, trường các ý nghĩa giữa ý thức và đối tượng”. Khi ấy ý thức và đối tượng gắn chặt với nhau thành một đối tượng duy nhất và có tính lưỡng diện - đứng về phía chủ thể thì gọi là noèse, đứng về phía đối tượng thì gọi là noème. Chính Husserl đã diễn giải quá trình đó đại ý: Trong trạng thái ấy chủ tri dừng ngay mọi phán đoán có liên quan, đặt đối tượng trong ngoặc, chỉ hướng tới những gì là bản chất nhất của nó, như tri giác về “ngôi nhà” thì vẫn là tri giác về “ngôi nhà”, “ngôi nhà được nhận thức”, ngôi nhà được đặt trong ngoặc, tự thân nó vẫn sống động, chẳng hạn như các quang cảnh về, dáng-vẻ-ở-một-khoảng cách từ, v.v…, và chúng sản sinh ra ý thức vẫn về chính ngôi nhà đó, lưu giữ một cách chân xác mỗi loại tư duy, mỗi loại “tôi trải nghiệm”, “tôi tư duy”, “tôi cảm nhận”, “tôi mong muốn” về ngôi nhà đó, v.v…
            Tóm lại, theo từ điển Triết học, Hiện tượng học là “Khuynh hướng duy tâm chủ quan” nhưng theo “kiểu” riêng của Husserl.
Như vậy, ta thấy Hiện tượng học có thể có ý nghĩa khi ta khuôn nó trong một phạm vi nghiên cứu riêng về phân tích tâm lý: trước cùng một sự vật hoặc sự việc, tùy theo từng người, sẽ “tự sinh” các cảm nhận khác nhau. Nó có thể rất có ích cho các nhà văn xây dựng chiều sâu tâm trạng, thế giới tinh thần phong phú của nhân vật. Còn coi Hiện tượng học là triết học cao hơn cả duy tâm, duy vật, là chân lý cuộc sống thì phải xem lại. Bởi con người luôn có tốt, xấu, giỏi, dốt khác nhau, nhận thức của một thằng kẻ cướp cũng được coi trọng như một nhà phát minh; xã hội không còn chuẩn mực về tri thức và đạo lý nữa thì sẽ như thế nào?
Chủ nghĩa Hiện sinh ra đời sau Hiện tượng học đã chịu ảnh hưởng nhiều từ nó. Đó là một chủ nghĩa đề cao tự do cá nhân, cho con người không phải chịu ràng buộc bởi tự nhiên cũng như xã hội. Khi cực đoan, một số người đã đua nhau sống theo bản năng, tự nhiên chủ nghĩa, có thời thanh niên ở một số nước phương Tây đã đua nhau để nguyên râu tóc, lũ lượt kéo nhau lên rừng sống bằng rau trái, tự nhiên khỏa thân, tự do chung chạ v.v… Sau nữa, Chủ nghĩa Thực dụng ra đời cũng dựa trên cái Tôi “Không có cái gì gọi là chân lý khách quan mà chỉ có chân lý của cái tôi. Chỉ có cái gì có lợi cho tôi sẽ là chân lý”!
Mặt khác, ở câu trên, Từ Huy một mặt viết: “chiều sâu của sự vật nằm trong chính cái bề ngoài của nó” nhưng câu liền kề lại viết ngược lại:
Các nhà tiểu thuyết mới tự nhận là họ có một cái nhìn chính xác hơn về thực tại. Vì thực tại đôi khi không phải là cái mà người ta có thể xác quyết chắc chắn; đôi khi nó là cái lẩn đi dưới cái nhìn của chúng ta, dưới sự phán xét của chúng ta; đôi khi nó không phải cái mà ta tưởng là nhìn thấy, nắm bắt được hay hiểu rõ. Đó là cái nhìn của một “kỷ nguyên hoài nghi (từ dùng của Nathalie Sarraute)”.
Trong quá trình nhận thức, khám phá, nhất là đối với những nhà nghiên cứu thì đúng là cần phải biết “hoài nghi” các kết quả để không bị lầm lẫn, còn đối với mọi mặt trong xã hội, một xã hội sống với tinh thần hoài nghi thì sẽ làm được cái gì?
Ngoài việc đề cao, tích cực tuyên truyền về “Tiểu thuyết mới”, “Hiện tượng học”, “Hậu hiện đại”, v.v…, tôi cũng rất bị bất ngờ khi Từ Huy cũng lại cố công tuyên truyền về Nietzsche. Cơ sở để Từ Huy thần phục Nietzsche chính là cuốn Nietzsche và triết học của Gilles Deleuze mà cô đã dịch và xuất bản qua một lời giới thiệu: “tôi vui mừng thấy Nietzsche trở lại một cách mới mẻ, hiện đại hơn với công trình Nietzsche và triết học của triết gia Gilles Deleuze qua bản chuyển Việt ngữ của Nguyễn Thị Từ Huy và lời giới thiệu trân trọng, công phu của học giả Bùi Văn Nam Sơn (Tủ sách tinh hoa, NXB. Tri thức, 2010)”.
Vậy Nietzsche là ai?
Theo Từ điển triết học (NXB Tiến bộ Matxcơva, bản dịch tiếng Việt của Nxb Sự thật Hà nội, 1986, tr. 412): “Học thuyết Nít-sơ đã là một trong những nguồn gốc của hệ tư tưởng phát-xít”; Theo Bachkhoatoanthu của BỘ VĂN HÓA - THÔNG TIN: “Friedrich Nietzsche (1844 - 1900), nhà triết học Đức, đại biểu của chủ nghĩa phi lí và ý chí luận, … Chết trong trạng thái điên”; “CHỦ NGHĨA PHI ĐẠO ĐỨC: quan niệm vứt bỏ mọi tiêu chí đạo đức, lấy tính vô đạo đức làm nguyên tắc của hành vi”; “và trong sự phát triển của tư tưởng đó đã sinh ra thuyết "siêu nhân". Ông là người theo ý chí luận triệt để, cho rằng ý chí quyết định hết thảy, và chính "ý muốn quyền lực" là động lực quyết định mọi quá trình xã hội và tự nhiên. Qua những luận đề nói trên, Nitsơ công khai tán dương sự bóc lột, sự đàn áp và xâm lược, cũng như sức mạnh”; “Những khía cạnh tiêu cực trong triết học của Nitsơ cũng đã bị bọn phản động khai thác, đặc biệt là  bọn Quốc xã”.
Trong bài Phê phán và siêu nhân được đăng bởi nguyentrongtao, Từ Huy đã “biện minh” cho Nietzsche như sau: “Phê phán là hành vi dẫn tới sự vượt lên đó, dẫn tới sự hình thành của siêu nhân. Và bất kỳ ai có khả năng tự phê phán, có khả năng tự hủy diệt mình đều mang trong mình siêu nhân, hay nói theo cách của Nietzsche, đều là nơi trú ngụ của siêu nhân. Khi tập trung làm sáng rõ điểm này, Deleuze đã góp phần “giải oan” cho Nietzsche ở một trong những vấn đề dễ gây hiểu lầm nhất trong tác phẩm của ông. Siêu nhân, qua lý giải của Deleuze, không phải là kẻ dẫm đạp lên người khác, không phải là kẻ thống trị những ai yếu hơn[6]. Trái lại, siêu nhân sở dĩ mạnh là vì biết vượt qua chính mình, và biết để cho người khác vượt qua mình, biết rằng mình chỉ là một giai đoạn “chuyển tiếp”, chỉ là một “sự suy tàn”, biết chấp nhận tự tiêu vong”.
Theo Đạo Phật: “Thân vô thường, tâm vô ngã”. Cái “tôi” thực chính là thần thức có thể luân hồi tái sinh qua nhiều kiếp trong những cái Tôi chiếm hữu mỗi người trong một kiếp. Vì thế cái Tôi không thực, chỉ là giả tạm, nhưng lại sinh ra tham, sân, si làm khổ người ta. Cái Tôi luôn có khuynh hướng tự tôn, bành trướng, sinh ra lòng tham không cùng, nên pháp tu chính của Đạo Phật là chế ngự cái Tôi, là Thiền, là trở về KHÔNG. Vì thế Đạo Phật có ý nghĩa rất lớn trong giáo dục đạo đức xã hội, ngoài ra còn có giá trị về Y học và cả trong khoa học nữa. Trong khi đó, thuyết “siêu nhân” của  Nietzsche lại đề cao cái Tôi một cách cực đoan nên thực sự là phản giáo dục. Còn chuyện “phê bình và tự phê bình” đã là lẽ tự nhiên của mỗi sự phát triển lành mạnh, nhưng cái chính là người ta có vượt qua được cái Tôi để thực hiện phê và tự phê hay không mới là quan trọng. Còn quan niệm về “siêu nhân” của Nietzsche được Deleuzegiải oan” mà Từ Huy đã tin theo: “Phê phán là hành vi dẫn tới sự vượt lên đó, dẫn tới sự hình thành của siêu nhân. Và bất kỳ ai có khả năng tự phê phán, có khả năng tự hủy diệt mình đều mang trong mình siêu nhân” thực sự là phản thực tiễn và phản khoa học. Bởi người ta chỉ phê phán cái yếu kém, cái sai, để thành người tốt hơn, giỏi hơn. Sự phát triển về khả năng và nhận thức là cả một quá trình tích lũy, mỗi thành tựu đều phải trả giá rất đắt mới có được; mỗi người, mỗi xã hội, cũng như cả nền văn minh đều phải phát triển trên nền tảng có sẵn đó, có phê phán là phê phán cái yếu kém, cái sai sót còn tồn tại để tiến lên, chứ “tự hủy diệt” thì chỉ có thành thằng điên, thành thằng phát-xít (với mỗi cá nhân) và  rớt xuống vực thẳm (với cấp độ xã hội) mà thôi!
Để khách quan, ta hãy xem Will Durant, “một ông nghè triết học của đại học Columbia”, trong Câu chuyện Triết học (The Story of Philosophy - Will Durant, Trí Hải và Bửu Đích dịch, Viện Đại Học Vạn Hạnh, 1971), cho biết Nietzsche đã quan niệm về thiện ác như sau: “…chàng sẽ không ngần ngại "Ác" (boese) nếu mục đích của chàng đòi hỏi; "Thiện là gì? Tất cả những gì tăng trưởng cảm thức quyền lực, ý chí quyền lực, chính quyền lực, ở trong người.  Ác là gì?  Là tất cả những gì sinh ra từ sự yếu hèn"”; “Do đó mọi chiến tranh đều tốt, bất chấp cái ti tiện tầm thường của những nguyên nhân gây ra nó vào thời đại này”; "một cuộc chiến tranh tốt đẹp sẽ thần thánh hoá mọi nguyên nhân".
Trong “Zarathustra đã nói như thế”, chính Nietzsche cũng viết: “Con người cũng như cây cối vậy. Hễ nó càng muốn vươn lên những vùng trời cao vút và rực sáng bao nhiêu thì những gốc rễ của nó càng phải đâm sâu vào lòng đất… vào sự ác xấu! Phải, vào sự ác xấu!
Đất nước ta đến tận hôm nay vẫn là một nước yếu kém về nhiều mặt. Chúng ta từng ngây ngô nghĩ rằng đã đánh thắng được Pháp và Mỹ thì ta cái gì cũng làm được. Nhưng thật kỳ lạ, có những cái trong hiểm nguy, một mất một còn, không chỉ cần ý chí mà đòi hỏi cả trí thông minh nữa, chúng ta đã làm được những điều mà thế giới nghĩ rằng ta không thể nào làm được; trái lại, trong cuộc sống thanh bình, có những cái những nước phát triển làm được thì ta đến hôm nay, và có lẽ còn lâu nữa, vẫn chưa làm được! Chính vậy, cái chính sách bế quan tỏa cảng ngày nào đã đẩy nước ta đến tận bờ vực của nghèo khó. Và rồi chính sách mở cửa đã đưa chúng ta đến được những ngày như hôm nay. Nhưng rồi sự mở cửa cũng có “phản ứng phụ”. Vì vậy, cái chuyện cần phải “gạn đục khơi trong” để “tiếp thu tinh hoa” của thế giới đã trở thành hiển nhiên, nghe quen thuộc đến nhàm tai, nhưng thực tế vẫn luôn là một vấn nạn. Trong biết bao điều tốt đẹp được du nhập vào đất nước luôn có lẫn cỏ dại và nấm độc, những cái mà không ngăn chặn có thể sẽ dần làm mục ruỗng cả nền tảng xã hội. Cả ngành truyền thông dường như đang lạc đường khi tối ngày cổ vũ lối sống tranh đoạt, đề cao cái tôi, với những siêu sao, siêu mẫu thành công dễ dãi nhờ “khoe hàng” hoặc may mắn. Những cái cao quý, sâu sắc, tinh tế đang bị những cái nhăng nhít mốt miếc, hot hiếc dồn đến chân tường! Tiếc rằng trong lĩnh vực tri thức uyên thâm cũng có tình trạng như vậy. Người ta cũng ham của lạ, cũng chạy theo những khái niệm lấp lánh, kêu beng beng, nhưng thực chất chẳng hiểu gì về chúng. Mà đúng ra, nếu đủ trình độ và bản lĩnh, người ta vẫn có thể nhận được những phần tốt đẹp từ Triết thuyết Phê phán của Kant, Hiện tượng học của Husserl, kể cả Ý chí luận của Nietzsche cũng như Hậu hiện đại của Lyotard v.v… Tiếc rằng với riêng trường hợp Từ Huy lại không được như thế. Có một cái gì đó thật nông nổi của một người tôi cao trí thấp đã khiến cho cô bị sa lầy trong đống chữ, cái tốt không học lại đi học cái dở. Phải chăng vì thế Từ Huy đã có những hành động và nhận thức lộn ngược, khăng khăng cho mình là đúng khi ủng hộ và tôn vinh những người mà các cơ quan công quyền đã xử phạt vì phạm pháp:
Một số người được nói đến ở đây là những người đi vào chốn lao tù bằng sự can đảm, bằng lòng cao thượng, nghĩa hiệp. Họ vào tù để thể hiện tự do của chính họ, và tự do của họ, hay là sự mất tự do của họ, nếu nhìn từ góc độ khác, là điều kiện cho việc một ngày nào đó mọi người ở Việt Nam sẽ có tự do. Theo định nghĩa của Aung San Suu Kyi, họ chính là quốc bảo.
Họ là những Trần Huỳnh Duy Thức, Cù Huy Hà Vũ, Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung, Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Lê Thanh Hải, Đinh Đăng Định… Các vị thẩm phán có thể kết án những con người không còn sợ hãi đó, đưa họ vào tù, giam cầm thân xác họ. Nhưng không thể giam cầm tự do của họ”.
Cũng chính vì vậy mà Từ Huy đã bất chấp Cù Huy Hà Vũ là một đứa con chính người cha là Nhà thơ Huy Cận đã than thở là “bất nghĩa, bất trung, bất hiếu”; một kẻ có những hành động trái luân thường đạo lý và phạm pháp khi cho ta tiêu diệt bọn diệt chủng PonPot là “xâm lược Căm-pu-chia”, đề nghị xóa bỏ ngày lễ thiêng liêng của dân tộc mừng ngày đất nước toàn thắng, hòa bình và độc lập v.v… nên Từ Huy mới viết ngược ngạo thế này:
          “Xã hội này có phải đã mất hết ý thức về các giá trị làm người rồi không, mất hết ý thức về các giá trị nhân đạo rồi không, mất hết ý thức về công lý, lẽ phải rồi không?”; “Chừng nào pháp luật được dùng để bảo vệ cái xấu, cái ác và chống lại con người, chừng đó sẽ có xã hội của dã thú” v.v…
            Chưa hết, trong sáng tác, Từ Huy cũng đã làm theo cái thẩm mỹ lộn ngược. Theo tôi đó là cái thẩm mỹ mất nhân tính, bởi nếu còn nhân tính thì người ta phải biết xấu hổ khi nói đến thô tục, phải biết kinh tởm khi nói đến uế tạp, cặn bã. Năm 1990, khi đi trên đại lộ Nhevxki trung tâm Leningrat, tôi đã quá ngạc nhiên khi thấy có nhóm họa sĩ trưng bầy tranh trên lề đường được “vẽ” bằng cách dán những lưỡi lam, vé số, dây thừng v.v… Sau tìm hiểu thì được biết người ta cũng đã có “cơ sở nghệ thuật” cho cách biểu đạt đó. Suy ngẫm thêm thì thấy trong tự nhiên có loài hổ, báo chỉ thích ăn thịt tươi, nhưng cũng có loài linh cẩu, kền kền lại chỉ thích ăn xác thối! Thì ra loài người cũng vậy, cũng có những người có sở thích thẩm mỹ như linh cẩu, như kền kền! Từ Huy chỉ là kẻ đi sau, thậm chí rất rất rất sau, nhưng đến như Nguyễn Huy Thiệp cũng mới chỉ trơ lỳ nhân tính, qua suy nghĩ của nhân vật, cho việc lấy xác thai nhi nấu cho chó ăn “chẳng quan trọng gì”, hoặc tả mặt người ta đen và tái như da ở “bìu dái”; “lông chân như lông lợn”; còn Từ Huy thì đã dấn thêm một nấc nữa về phía băng hoại khi viết:
            “Văn chương là dinh dưỡng, là thứ mà ta không thể sống nếu thiếu nó, nó là cứt”.
            Thật kinh tởm khi phải viết những dòng này, nhưng với tinh thần trọng chứng hơn trọng cung, tôi buộc phải viết. Thực ra ý của Từ Huy nảy ra từ ý của Victor Hugo: “Cứt giúp mùa xuân làm nở hoa hồng”. Kể cũng ghê ghê nhưng Hugo viết cứt là phân bón làm nở hoa hồng thì đúng quá. Còn theo cách hành văn như trên của Từ Huy ta buộc phải hiểu “Văn chương nếu được ví là dinh dưỡng thì nó là cứt”, vậy cũng có nghĩa là “cứt là dinh dưỡng”! Mà khi đã coi cứt là dinh dưỡng thì đúng là mất nhân tính rồi!
            Thực tế Từ Huy chẳng bao giờ dùng cứt thay cho dinh dưỡng đâu, nhưng bà TS Văn chương Pháp hạng tối ưu chỉ vì quá dốt về ngôn ngữ nên mới viết như vậy thôi. Cái này thì đến khả năng tiếng Việt của ông Trần Mạnh Hảo cũng nhận ra cái sai của bà TS này chứ không cứ gì tôi!
            Về quan hệ riêng thì tôi hoàn toàn không biết gì và không liên quan gì đến Từ Huy. Nhưng những vấn đề liên quan đến “hiện tượng Từ Huy” thì tôi tự thấy thật nghiêm trọng, nhất là Từ Huy lại đang là một cái tên hot trong giới học thuật, nên tôi đã phải viết một loạt bài quyết liệt như thế. Bởi tôi e ngại cách nghĩ của Từ Huy sẽ thành cái “mốt”, mà khi đã thành “mốt” rồi thì đâu cần đúng sai, phải trái nữa! Như cái “mốt” gầy trơ xương của người mẫu đó, nó phản thẩm mỹ nhưng người ta vẫn đua theo! Tôi mong bạn đọc hiểu cho, tôi viết với tinh thần “thương cho roi cho vọt”, chỉ mong Từ Huy và những người noi theo Từ Huy sớm tỉnh ngộ. Đừng có thân làm tội đời! Chỉ vậy thôi!
            TPHCM
18-12-2012
            ĐÔNG LA
____________________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO
 *Từ điển Triết học (NXB Tiến bộ Maxcơva và NXB Sự thật Hà Nội, 1986, bản in tại Liên xô); *Từ điển Triết học Phương Tây hiện đại (Nxb Khoa học Xã hội, H. 1996); *CÂU TRUYỆN TRIẾT HỌC (Nguyên tác: The Story of Philosophy - Will Durant - Trí Hải và Bửu Đích dịch); *NGUYỄN (PHẠM?) MINH LĂNG: Mấy trào lưu triết học phương Tây (NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, H., 1988); *NGUYỄN TRỌNG NGHĨA: PHƯƠNG PHÁP HIỆN TƯỢNG HỌC CỦA E.HUXÉC (Tạp chí Triết học); *NGUYỄN THỊ MAI HOA:  E.HUSSERL (1859 - 1938) - NHÀ HIỆN TƯỢNG HỌC - Cuộc đời và tác phẩm (Tạp chí triết học) v.v…